Nhiễm khuẩn hô hấp là gì? Các công bố khoa học về Nhiễm khuẩn hô hấp

Nhiễm khuẩn hô hấp là một nguyên nhân chính gây bệnh toàn cầu, ảnh hưởng đến mũi, họng, xoang, thanh quản, phổi và phế quản, do vi khuẩn, virus hoặc nấm gây ra. Các triệu chứng phổ biến gồm ho, sốt, khó thở, đau họng, xoang tắc nghẽn. Chẩn đoán cần các xét nghiệm như chụp X-quang phổi, xét nghiệm máu. Điều trị tùy vào nguyên nhân gồm kháng sinh, thuốc kháng virus. Phòng ngừa thông qua vệ sinh cá nhân, tiêm phòng cúm, tránh tiếp xúc với người bệnh. Hiểu biết và can thiệp y tế kịp thời giúp điều trị hiệu quả.

Nhiễm Khuẩn Hô Hấp: Khái Niệm và Phân Loại

Nhiễm khuẩn hô hấp là một trong những nguyên nhân chính gây ra bệnh tật trên toàn cầu, ảnh hưởng đến các bộ phận của hệ hô hấp như mũi, họng, xoang, thanh quản, phổi và phế quản. Nhiễm khuẩn có thể do vi khuẩn, virus hoặc nấm gây ra.

Nguyên Nhân Gây Nhiễm Khuẩn Hô Hấp

Nguyên nhân phổ biến gây nhiễm khuẩn hô hấp bao gồm:

  • Virus: Gây ra đa số các bệnh hô hấp cấp tính, bao gồm cúm và cảm lạnh thông thường.
  • Vi khuẩn: Nhiễm khuẩn phế cầu khuẩn và liên cầu khuẩn thường gặp trong nhiễm trùng phổi và viêm phế quản.
  • Nấm: Thường ít phổ biến hơn, nhưng có thể nghiêm trọng, đặc biệt ở người suy giảm miễn dịch.

Các Triệu Chứng Thường Gặp

Triệu chứng của nhiễm khuẩn hô hấp có thể khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân và vị trí nhiễm trùng, bao gồm:

  • Ho, có thể có đờm
  • Sốt
  • Khó thở
  • Đau họng
  • Xoang bị tắc nghẽn

Chẩn Đoán và Điều Trị

Chẩn đoán: Để xác định nguyên nhân chính xác của nhiễm khuẩn hô hấp, bác sĩ có thể yêu cầu thực hiện các xét nghiệm như xét nghiệm máu, chụp X-quang phổi, và xét nghiệm đờm.

Điều trị: Phương pháp điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng:

  • Kháng sinh: Được sử dụng cho các trường hợp nhiễm vi khuẩn.
  • Thuốc kháng virus: Sử dụng trong trường hợp nhiễm virus nghiêm trọng, chẳng hạn như cúm.
  • Thuốc giảm đau và hạ sốt: Giảm triệu chứng và tăng cường cảm giác thoải mái.

Phòng Ngừa Nhiễm Khuẩn Hô Hấp

Các biện pháp phòng ngừa có thể giúp giảm nguy cơ nhiễm khuẩn hô hấp, bao gồm:

  • Rửa tay thường xuyên với xà phòng và nước.
  • Tránh tiếp xúc gần với người bị nhiễm bệnh.
  • Tiêm phòng cúm hàng năm.
  • Giữ ấm thân thể và duy trì lối sống lành mạnh.

Kết Luận

Nhiễm khuẩn hô hấp là một vấn đề sức khỏe phổ biến nhưng có thể phòng ngừa và điều trị hiệu quả với sự hiểu biết đúng đắn và can thiệp y tế kịp thời. Việc duy trì vệ sinh cá nhân và tiêm phòng đầy đủ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhiễm khuẩn hô hấp":

Thay đổi kiến thức và thái độ cho bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đang điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 3 - Trang 58-64 - 2020
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và đánh giá sự thay đổi kiến thức, thái độ về bệnh, cách chăm sóc và dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đang điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Yên Bái năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp so sánh trước sau có nhóm chứng. 168 bà mẹ (84 ở nhóm chứng, 84 ở nhóm can thiệp) được chọn vào nghiên cứu thông qua phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Chương trình can thiệp giáo dục sức khỏe và bộ công cụ đánh giá kiến thức, thái độ của bà mẹ trước và sau can thiệp do tác giả xây dựng, tham khảo bộ công cụ trong y văn và xin ý kiến chuyên gia điều chỉnh một số nội dung cho phù hợp với đặc điểm địa bàn và đối tượng nghiên cứu. Kết quả: Kiến thức, thái độ của bà mẹ ở cả 2 nhóm về bệnh, chăm sóc và dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trước can thiệp còn thấp và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm này trước can thiệp (p > 0,05). Sau can thiệp, điểm kiến thức và thái độ của bà mẹ nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng (p < 0,05). Đáng chú ý, trong khi nhóm đối chứng không có sự thay đổi về kiến thức, thái độ giữa hai thời điểm đánh giá (p > 0,05), nhóm can thiệp có sự cải thiện rõ rệt điểm số giữa trước và sau can thiệp (p > 0,05). Kết luận: Nghiên cứu cho thấy chương trình can thiệp giáo dục sức khỏe có hiệu quả trong việc thay đổi kiến thức và thái độ cho các bà mẹ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Chương trình nên được áp dụng rộng rãi hơn trên lâm sàng cũng như các đánh giá sâu hơn để đánh giá chính xác hơn tác dụng và nâng cao chất lượng của chương trình can thiệp
#Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính #kiến thức #thái độ #can thiệp giáo dục sức khỏe.
Thực hành chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của các bà mẹ có con đến khám tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La năm 2019
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 6 Số 02 - Trang 118-124 - 2023
Mục tiêu: Mô tả thực trạng việc thực hành chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của các bà mẹ có con đến khám tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La năm 2019 và một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích trên 200 bà mẹ có con từ 2 tháng đến dưới 5 tuổi bị mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đến khám tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2019. Kết quả: Trong 179 bà mẹ có con bị ho, 62.6% chọn thuốc giảm ho tây y, 26.8% bà mẹ chọn thuốc giảm ho đông y, 25.7% bà mẹ cho uống kháng sinh; Trong 167 bà mẹ có con bị sốt, 79.6% bà mẹ cho uống thuốc hạ sốt, 79.0% bà mẹ cho con mặc thoáng và trườm ấm, 38.3% bà mẹ cho con uống thêm nước; Trong 100 bà mẹ có con bị chảy mũi, 66.3% bà mẹ hút mũi cho trẻ, 52.5% bà mẹ thấm, lau dịch mũi cho trẻ. Trong đợt bệnh của trẻ, tỷ lệ bà mẹ cho con ăn, uống nhiều hơn là 63.0% và 39.5%. Có 81.5% bà mẹ lau, tắm cho trẻ bằng nước ấm hàng ngày, 78.0% bà mẹ giữ ấm cho trẻ. Đánh giá chung, chỉ 43.5% bà mẹ xử trí đúng khi con bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Trình độ văn hóa, nghề nghiệp, sự tiếp cận thông tin về bệnh có liên quan đến thực hành của các bà mẹ. Kết luận: Tỷ lệ bà mẹ thực hành đúng còn thấp. Cần chú ý đến những yếu tố liên quan khi giáo dục chăm sóc trẻ bệnh cho bà mẹ.
#Xử trí nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính #yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
GIÁ TRỊ CỦA THANG ĐIỂM PRESS TRONG PHÂN LOẠI NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP TÍNH Ở TRẺ TỪ 2 THÁNG ĐẾN 5 TUỔI TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
TNU Journal of Science and Technology - Tập 228 Số 01 - Trang 328-333 - 2023
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá giá trị của thang điểm PRESS trong phân loại nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi. Đối tượng nghiên cứu gồm 559 bệnh nhân nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Kết quả cho thấy, tỷ lệ viêm phổi nặng là 24,9%, tỷ lệ viêm phổi là 32,2%. Chủ yếu là nhiễm khuẩn hô hấp dưới với 87,5% bệnh nhân. Có 61,5% bệnh nhân tuổi từ 12 tháng - 5 tuổi, tỷ lệ nam/nữ là 1,37/1. Điểm PRESS ≥2 có tỷ lệ viêm phổi 97,9%. Điểm PRESS ≥2 có giá trị phân loại viêm phổi với độ nhạy 86,8% và độ đặc hiệu là 97,5%. Diện tích dưới đường cong ROC là 0,929 với p<0,01. Điểm PRESS ≥4 có giá trị phân loại viêm phổi nặng với độ nhạy 81,3% và độ đặc hiệu là 99,5%. Diện tích dưới đường cong ROC là 0,875 với p<0,01. Thang điểm PRESS có giá trị phân loại nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ em từ 2 tháng đến 5 tuổi.  
#PRESS scale #Classification #Acute respiratory infections #Sensitivity #Specificity
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐO ĐÀN HỒI CỤC MÁU (ROTEM) ĐỂ ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU Ở BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾT CÓ THỜI GIAN PROTHROMBIN VÀ THỜI GIAN THROMBOPLASTIN HOẠT HÓA TỪNG PHẦN KÉO DÀI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1B - 2023
Mục tiêu: So sánh tình trạng rối loạn đông máu bằng phương pháp đo đàn hồi cục máu (ROTEM) ở bệnh nhân (BN) nhiễm khuẩn huyết (NKH) có INR >1,2 hay aPTTr >1,2 ở nhóm tử vong và nhóm sống nhập khoa hồi sức. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang BN NKH nhập khoa Hồi sức tích cực, bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh có INR hay aPTT >1,2 từ  06/2020-12/2021. Kết quả: Có 95 BN NKH được chọn vào nghiên cứu từ 161 BN trong nghiên cứu gốc với tuổi trung vị là 70 [61-80], điểm SOFA trung vị là 7 [5-9]. Tỉ lệ tử vong chiếm tỉ lệ 25,3%. INR và aPTTr trung vị lần lượt là 1,42 [1,3-1,65] và 1,12 [4,1-6,8]. Nhóm tử vong có nồng độ fibrinogen máu thấp hơn, lactate máu và INR cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm sống (p <0.05). BN có INR >1,2 có tỉ lệ giảm đông, tăng đông, và đông máu bình thường trên ROTEM lần lượt là 58,2%, 26,4%, và 29,7%. BN có aPTTr >1,2 có tỉ lệ giảm đông, tăng đông, và đông máu bình thường trên ROTEM lần lượt là 65,7%, 14,3%, và 28,6%. Giảm đông trên ROTEM làm tăng tỉ lệ tử vong, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p >0.05). Kết luận: BN NKH hoặc SNK có INR hay aPTTr kéo dài có thể có tình trạng tăng đông, giảm đông và đông máu bình thường trên ROTEM.
#aPTT #APTTr #Đo đàn hồi cục máu #Nhiễm khuẩn huyết #INR Rối loạn đông máu #ROTEM
THAY ĐỔI KIẾN THỨC, THỰC HÀNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH CỦA BÀ MẸ CÓ CON NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP TÍNH SAU GIÁO DỤC SỨC KHỎE TẠI BỆNH VIỆN ĐÔNG HƯNG -THÁI BÌNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức và thực hành sử dụng kháng sinh của bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính điều trị tại Bệnh viện đa khoa Đông Hưng - Thái Bình sau giáo dục sức khỏe. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:  Nghiên cứu thực hiện trên 97 bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính điều trị tại Bệnh viện đa khoa Đông Hưng từ tháng 3/2020 đến tháng 6/ 2020. Với phương pháp nghiên cứu can thiệp giáo dục sức khỏe có so sánh trước - sau trên một nhóm đối tượng về kiến thức sử dụng kháng sinh dựa trên hướng dẫn sử dụng kháng sinh của Bộ Y tế và khuyến cáo của WHO.Kết quả:  Trước can thiệp giáo dục sức khỏe, kiến thức và thực hành sử dụng kháng sinh của các bà mẹ còn thấp. Trước can thiệp bà mẹ có kiến thức đạt là 34%, điểm trung bình là 7,85 ± 4,05 trên tổng điểm 18, bà mẹ có thực hành đạt là 43,3%, điểm trung bình là 6,3 ± 2,09 trên tổng điểm 12. Sau can thiệp, kiến thức và thực hành sử dụng kháng sinh của các bà mẹ tăng đáng kể và đạt 100%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,01. Kết luận: Kiến thức và thực hành sử dụng kháng sinh của các bà mẹ trước can thiệp còn hạn chế nhưng đã cải thiện đáng kể sau can thiệp. Điều này cho thấy hiệu quả của giáo dục sức khỏe trong việc nâng cao kiến thức, thực hành cho các bà mẹ về sử dụng kháng sinh.
#Thay đổi kiến thức #sử dụng kháng sinh #nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
Thay đổi kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Bệnh viện Nhi Nam Định năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 5 - Trang 176-182 - 2020
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức của bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ 6 - 24 tháng tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định sau can thiệp giáo dục sức khỏe. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu gồm 75 bà mẹ có con từ 6 - 24 tháng tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định. Nghiên cứu can thiệp có so sánh trước – sau giáo dục sức khỏe trên cùng một nhóm đối tượng. Kết quả: Điểm trung bình kiến thức của bà mẹ trước can thiệp là 13,0 ± 4,7 sau can thiệp đã tăng lên thành 16,5 ± 2,9, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Trước can thiệp có 57,3% bà mẹ có điểm kiến thức đạt, sau can thiệp tỷ lệ này là 96%. Nghiên cứu cho thấy hiệu quả của can thiệp giáo dục sức khỏe đã nâng cao kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ cho trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Kết luận: Kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6 - 24 tháng trước can thiệp tương đối thấp và sau can thiệp đã có sự cải thiện rõ rệt
#Bà mẹ #kiến thứcdinh dưỡng #nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính.
Thay đổi thực hành chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6-24 tháng mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại Bệnh viện Nhi Nam Định năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 5 Số 02 - Trang 124-132 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi thực hành của bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ 6 - 24 tháng tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính điều trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định sau can thiệp giáo dục sức khỏe. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu là 75 bà mẹ có con từ 6-24 tháng tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định, thiết kế nghiên cứu can thiệp bán thực nghiệm. Kết quả:  Điểm trung bình thực hành trước can thiệp là 5,8 ± 2,1 và sau can thiệp đã tăng lên thành 8,3 ± 1,9, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (t = 3,2; p <0,05). %). Đã có sự thay đổi đáng kể trước và sau can thiệp, tỷ lệ bà mẹ đã tăng số lượng thức ăn 1 bữa cho trẻ (22,7% - 58,7% sau can thiệp) và thực hành cho trẻ ăn thêm hoa quả (38,7%-72), tuy nhiên can thiệp có hạn chế là mới chỉ cải thiện một phần nhỏ hoạt động cho trẻ ăn loãng hơn của bà mẹ (9,3%- 12%). Nghiên cứu đã cho thấy hiệu quả của can thiệp giáo dục sức khỏe đã cải thiện đáng kể thực hành chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ từ đó trẻ nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính được chăm sóc dinh dưỡng tốt hơn. Kết luận: Sau khi can thiệp bằng giáo dục sức khỏe, thực hành chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con 6 - 24 tháng đã tăng lên, thực hành mức độ đạt tăng từ 57,3% trước can thiệp lên 80% sau can thiệp.
#Thực hành của bà mẹ #chăm sóc dinh dưỡng #nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
MÔ HÌNH NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP TÍNH Ở TRẺ EM ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN NHI THANH HÓA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả mô hình nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) ở trẻ em điều trị nội trú tại Bệnh viện Nhi Thanh Hóa giai đoạn 2019-2021. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu và hồi cứu, mô tả cắt ngang. Chọn mẫu toàn bộ các bệnh nhân dưới 5 tuổi điều trị nội trú tại Bệnh viện Nhi Thanh Hóa từ 01/2019 đến 12/2021. Kết quả: Bệnh lý NKHHCT rất đa dạng, cả đường hô hấp trên và hô hấp dưới. Tuổi  nhập  viện trung bình của trẻ NKHHCT là 22,1±2,6 tháng. Tỷ lệ trẻ trai/trẻ gái là 1,7/1. Viêm họng cấp là bệnh lý đường hô hấp trên thường gặp nhất, chiếm 8,4%. Viêm tiểu phế quản cấp thường gặp nhất trong nhóm các bệnh lý đường hô hấp dưới, chiếm 33,4%. Tỷ lệ bệnh nhân nhập viện chủ yếu vào mùa đông và mùa xuân. Kết luận: Bệnh NKHHCT chủ yếu gặp ở lứa tuổi nhỏ, trẻ trai gặp nhiều hơn trẻ gái. Bệnh nhân nhập viện chủ yếu vào mùa đông xuân.
#Nhiễm khuẩn hô hấp cấp #trẻ em
DỊCH TỄ LÂM SÀNG NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP NẶNG DO NHIỄM VIRUS HỢP BÀO HÔ HẤP TẠI KHOA ĐIỀU TRỊ TÍCH CỰC BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân nhiễm khuẩn hô hấp cấp (NKHHC) nặng có nhiễm virus hợp bào hô hấp (RSV) tại khoa Điều trị tích cực Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu 83 bệnh nhân được chẩn đoán NKHHC nặng có nhiễm RSV tại khoa Điều trị tích cực Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 05/2020 đến 05/2021. Kết quả: Tuổi trung bình 3,3 ± 2,1 tháng, tỷ lệ nam/nữ = 2/1. Đa số ca bệnh tập trung vào mùa thu đông (từ tháng 10 - 12). Bệnh nhân NKHHC nặng chiếm chủ yếu chiếm 72,3%. NKHHC rất nặng chiếm 27,7%. Các tình trạng suy chức năng sống nặng: suy hô hấp độ 3 chiếm 100%, suy tuần hoàn chiếm 31,3%,và suy đa tạng 34,9%. Thang điểm PRISM và PELOD tương đối cao. Hầu hết bệnh nhân có tình trạng nhiễm khuẩn kèm theo SIRS 68,7%, tăng CRP vàprocalcitonin 47% và 78,3%... Tỷ lệ trẻ sinh non cao (30,1%), tình trạng dị tật bẩm sinh kèm theo cao (40,9%), tình trạng bệnh nền cao (30,1%), tỷ lệ đồng nhiễm cao (53%). Đồng nhiễm vi khuẩn là yếu tố liên quan đến mức độ nặng của NKHHC nặng có nhiễm RSV (với p<0,05). Kết luận: Biểu hiện lâm sàng nặng nề nhưng không đặc hiệu. Tỷ lệ trẻ sinh non, dị tật bẩm sinh, bệnh nền và tỷ lệ đồng nhiễm vi sinh vật cao. Đồng nhiễm vi khuẩn là yếu tố liên quan đến mức độ nặng của NKHHC nặng có nhiễm RSV.
#Nhiễm khuẩn hô hấp cấp nặng #virus hợp bào hô hấp.
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG TRẺ 6-23 THÁNG TUỔI ĐANG MẮC NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP VÀ MỘT SỐ THỰC HÀNH NUÔI TRẺ CỦA BÀ MẸ TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI TỈNH HÀ NAM NĂM 2016-2018
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 62 Số 4 (2021) - Trang - 2021
Điều tra theo phương pháp cắt ngang mô tả trên 523 cặp mẹ con trẻ 6-23 tháng tuổi đang mắc nhiễmkhuẩn hô hấp cấp vào điều trị tại Bệnh viện Sản nhi tỉnh Hà Nam năm 2016-2018 nhằm đánh giátình trạng dinh dưỡng của trẻ và mô tả một số thực hành nuôi trẻ của bà mẹ. Kết quả cho thấy: Tỷ lệSDD thấp còi và gầy còm của trẻ ở mức cao: 21,2% và 11,1% (tương ứng); tỷ lệ SDD thể nhẹ cân là14,0%. Tỷ lệ bà mẹ cho con bú muộn sau 1 giờ đầu sau sinh và tỷ lệ bà mẹ cho cho con ăn bổ sungquá sớm hoặc quá muộn (trước 6 tháng hoặc sau 8 tháng tuổi) khá cao: 62,5% và 53,0% (tương ứng);tỷ lệ bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú lần đầu là 24,3%. Những trẻ được bắt đầu cho ăn bổsung không đúng thời điểm so với những trẻ được cho ăn đúng thời điểm có tỷ lệ SDD thấp còi caohơn: 24,2% và 18,8% (tương ứng) (OR=1,4; 95%CI 0,9-2,3) nhưng chưa thấy sự khác biệt có ý nghĩathống kê (p=0,1075); tỷ lệ SDD nhẹ cân cũng cao hơn: 19,5% và 7,8% (tương ứng) khác biệt có ýnghĩa thống kê rất rõ rệt (OR=2,9; 95%CI 1,6-5,3; p=0,0001).
#Tình trạng dinh dưỡng #trẻ 6-23 tháng tuổi #nhiễm khuẩn hô hấp cấp
Tổng số: 43   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5